⛳ Trị Bệnh Viêm Hồi Tràng Trên Heo

Điều trị bệnh ghẻ cho dê. Khi dê bị bệnh cần tách riêng để điều trị bằng một trong các phác đồ sau: Phác đồ 1: Hàng ngày bôi cồn I-ốt hoặc xanh metylen lên vùng da bị bệnh để diệt mầm bệnh và tránh nhiễm trùng kế phát. Xoa mỡ Ô-xít kẽm và Ketamicin lên những vùng Liều lượng - Cách dùng. 1-3 viên/ngày. Tác dụng của thuốc có thể bắt đầu sau 1 tuần, nếu đau nhiều có thể dùng thuốc giảm đau chống viêm trong những ngày đầu. Thuốc không gây rối loạn dạ dày-ruột nên có thể điều trị lâu dài. Điều trị nhắc lại sau 6 tháng hoặc Thiabendazole dùng điều trị bệnh ấu trùng ấu trùng giun đũa chó mèo cho kết quả: A. Bệnh khỏi hoàn toàn sau 3 tuần B. Bệnh khỏi hoàn toàn sau 3 tháng C. Các triệu chứng lâm sàng giảm 50% các trường hợp sau 3 tuần D. Các triệu chứng lâm sàng giảm 10% các trường hợp sau 3 tuần tdYHAX. Bệnh viêm hồi tràng hay viêm ruột tăng sinh trên heo do vi khuẩn Lawsonia intracellularis gây ra với 4 thể bệnh là • Thể ruột tăng sinh xuất huyết PHE • Hội chứng tăng sinh tuyến ruột PIA. • Thể bệnh viêm ruột hoại tử NE • Thể bệnh viêm hồi tràng cục bộ RI Trong đó có 2 thể bệnh chính là PHE và PIA, hai trường hợp còn lại gồm NE và RI thường là biến chứng từ một trong 2 thể bệnh trên. Tuy nhiên biểu hiện lâm sàng của mỗi thể bệnh trên là hoàn toàn khác nhau nên khi mô tả chúng ta cần mô tả một cách riêng biệt cả 4 thể bệnh trên. 1. Bệnh viêm hồi tràng Hội chứng tăng sinh tuyến ruột PIA PIA có khuynh hướng xuất hiện ở heo con đang phát triển, đặc biệt là từ 6-8 tuần tuổi và kéo dài đến khi kết thúc đàn hơn 3 tháng tuổi. Biểu hiện điển hình là heo tiêu chảy phân nhão và có màu xi măng chứ không phải lỏng như nước xem ảnh dưới đây Tiêu chảy phân màu xi măng đặc trưng của heo bị Bệnh viêm hồi tràng trên heo – PIA Trong một số trường hợp, rối loạn đường ruột nhẹ đến nỗi phân hầu như không khác thường là mấy. Khi đó, bệnh chỉ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của heo – gọi là bệnh cận lâm sàng cổ điển. Kết quả là trong đàn xuất hiện những heo còi cọc và tăng trưởng chậm hơn hẳn gây ra sự chênh lệch về thể trạng khá lớn trong đàn và hay nhầm với hội chứng còi cọc trên heo do Circovirus xem ảnh sau. Thể trạng heo trong đàn không đồng đều Khi heo nhiễm bệnh, thành ruột non đoạn cuối ruột non – hồi tràng và thành ruột già đoạn đầu ruột già – manh tràng trở nên dày hơn xem chi tiết trong ảnh dưới đây và khi tình trạng này kéo dài trong vài tuần trở lên sẽ gây ra hiện tượng mất máu mãn tính cà tiêu chảy. Cuối cùng, heo sẽ khỏi bệnh trong hầu hết trường hợp nhưng rất còi cọc và thường trại buộc phải loại bỏ những heo này để không ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Hiếm thấy trường hợp nào heo bị PIA không có biến chứng mà lại dẫn đến tử vong. Thành ruột viêm tăng sinh dày hơn so với bình thường khá nhiều. Trong nhiều trang trại mà nhất là những trại có heo bệnh trên 10 tuần tuổi thường tìm thấy các mầm bệnh kế phát khác như xoắn khuẩn Sprirocaetes, Salmonella, Yersinia…Khi đó hiện tượng viêm lan xuống cả ruột già và thường gọi là viêm đại tràng. Tuổi heo mắc các thể của bệnh viêm hồi tràng trên heo Các mầm bệnh kế phát này thường sẽ làm thay đổi đặc tính tiêu chảy của bệnh và trong một số trường hợp nó sẽ gây xuất huyết ruột và giết chết heo. 2. Bệnh viêm hồi tràng Thể bệnh viêm ruột hoại tử NE Thành niêm mạc ruột đoạn hồi tràng dày lên và lồi lõm rất giống với bệnh viêm ruột hoại tử do Salmonella gây ra nhưng điểm khác là giới hạn viêm thường không vượt ra ngoài đoạn hồi tràng xem thêm chi tiết ở ba ảnh sau. Thành ruột hồi tràng dày lên che mất phần viêm hoại tử bên trong. Niêm mạc ruột hoại tử màu vàng mật điển hình của bệnh tích viêm ruột hoại tử Ruột viêm hoại tử chất chứa trong ruột đen 3. Bệnh viêm hồi tràng Thể bệnh viêm hồi tràng cục bộ RI Mỗi đoạn của hồi tràng sẽ bị tổn thương theo một kiểu khác nhau. Đoạn thì bị hoại tử nhưng có đoạn lại chỉ bị tăng sinh dày lên. Đây là thể bệnh ít gặp và thường là do biến chứng của các thể khác gây nên. Hồi tràng viêm với cùng lúc nhiều bệnh tích khác nhau 4. Bệnh viêm hồi tràng Thể ruột tăng sinh xuất huyết PHE Đây là thể bệnh nặng nhất và gặp nhiều nhất trong thực tế. Thường khi phát hiện ra thì heo đã chết nhưng cũng có trường hợp heo bệnh còn sống với các biểu hiện heo nhợt nhạt, ủ rũ, phân đen trông như hắc ín và có mùi hôi biểu hiện này không thể chẩn đoán lâm sàng được với bệnh loét dạ dày. Khi mổ khám heo bệnh, phần cuối ruột non và đầu ruột già được lấp đầy bằng những cục máu đông dài như sợi dây nằm gọn trong ruột có hình ảnh minh họa. Phần phân đen như hắc ín thì nằm phía đoạn ruột già dưới chỗ có máu đông. Một sợi dây máu đông đặc trưng của PHE Thành ruột phần hồi tràng có thể dày lên nhưng bề mặt lớp niêm mạc thường bị trầy xước và viêm loét. Chỗ xuất huyết trên niêm mạc ruột thường không nhìn thấy được bằng mắt thường Cơ chế cụ thể dẫn đến các triệu chứng bệnh tích lâm sàng của PHE đến nay vẫn là một bí ẩn với các nhà khoa học nhưng hiện tại được lý giải theo 2 hướng như sau – Một là do những con heo sạch bệnh gặp phải một lượng mầm bệnh quá dày đặc. – Hai là do có thể trước đó heo đã bị nhiễm bệnh và bây giờ bị lại nên bệnh phát triển thành phản ứng quá cấp tính gây ra những tổn thương như trên. PHE thường xảy ra lẻ tẻ trong đàn và có thể xảy ra bất cứ lúc nào mà đặc biệt là vào mùa lạnh và trên những con heo mới được nhập về để thay thế đàn gần đây. Dưới đây là một số hình ảnh triệu chứng, bệnh tích lâm sàng khác của bệnh. Heo bị tiêu chảy trong bệnh viêm hồi tràng trên heo Phân của heo mắc bệnh viêm hồi tràng trên heo Heo chết và mổ khám heo trong bệnh viêm hồi tràng trên heo Biểu hiện của ruột heo trong bệnh viêm hồi tràng trên heo Thành ruột của heo mắc bệnh viêm hồi tràng trên heo Trên đây VietDVM đã giới thiệu một số hình ảnh về biểu hiện bên ngoài và biểu hiện bệnh tích của 4 thể bệnh của Bệnh viêm hồi tràng trên heo. VietDVM team bài viết có sử dụng tư liệu hình ảnh của các đồng nghiệp và độc giả cung cấp Nguồn VietVDM Để lại comment của bạn Bệnh Viêm hồi tràng trên heo là một trong những bệnh khá phức tạp. Bệnh gây thiệt hại khá nặng nề về mặt kinh tế cho trại vì thường gây chết heo thịt giai đoạn cuối, thậm chí là heo chuẩn bị xuất bán và heo nái tơ. Bởi vậy mà việc chẩn đoán sớm và chính xác mầm bệnh đồng thời đưa ra hướng điều trị đúng, kịp thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hạn chế thiệt hại do bệnh gây ra. Tuy nhiên khó khăn trong việc chẩn đoán nằm ở chỗ bệnh có nhiều biểu hiện khá giống với các bệnh tiêu chảy khác trên heo mà đặc biệt trong đó là rất hay nhầm lẫn với bệnh tiêu chảy trên heo do trùng lông Balantidium coli. Mà hướng điều trị của 2 bệnh này lại hoàn toàn khác nhau nên nếu chẩn đoán nhầm thì sẽ khiến cho việc điều trị gặp rất nhiều khó khăn. Dưới đây là một số điểm khác nhau cơ bản giữa bệnh Viêm hồi tràng và Balantidium coli. Một số điểm khác nhau cơ bản giữa 2 bệnh bệnh Viêm hồi tràng và Bệnh do Balantidium coli Đặc điểm so sánhbệnh Viêm hồi tràngBệnh do Balantidium coliNguyên nhân gây bệnhVi khuẩn ký sinh nội bào Lawsonia intracellularis LiDo trùng lông ký sinh trùng có tên Balantidium coli gọi khác– Ileitis.– Bệnh viêm ruột tăng sinh.– Bệnh ruột tăng sinh xuất huyết PHE.– Hội chứng sưng tuyến ruột PIA.– Bệnh tiêu chảy phân xám trên heo thịt.– Hội chứng lỵ do trùng lông Balantidium trị bằng kháng sinhCó tác dụng với các kháng sinh nội bàoKhông có tác dụngĐặc điểm phân tiêu chảyNhiều kiểu phân nhão, loãng như nước.– Màu phân vàng, đen, xi măng, hơi hồng hồng.– Có máu.– Mùi có thể có mùi thối khắm– Tiêu chảy phân loãng.– Màu phân xi măng, vàng.– Có máu.– Nếu không kế phát thì phân không có mùi ruột bị tổn thương– Chủ yếu thấy ở hồi tràng cuối ruột non.– Thi thoảng thấy ở manh tràng đầu ruột già– Thi thoảng thấy ở hồi tràng.– Chủ yếu ở manh thủng ruộtThường chỉ gây gây viêm, xuất huyết và hoại tử chứ không làm thủng thể gây loét, thủng ruộtBiểu hiện bệnh tích trên ruộtKhông có u hạt. Thành ruột viêm tăng sinh dày lên nhiều so với bình thườngCó u hạt bám lên thành trong ruột già. Thành ruột không dày chếSống ký sinh nội bào tấn công và làm tổng thương niêm mạc ruộtSống hội sinh chỉ tấn công thành ruột khi niêm mạc ruột bị tổn heo bệnhChủ yếu bị ở heo nuôi thịt, heo vỗ số ít xảy ra trên heo nái tơ và heo cai yếu xảy ra trên heo cai độ thiệt hạiGây thiệt hại kinh tế gây nhiều thiệt hại nhiều nếu như không kế phát với các mầm bệnh khác. Một số hình ảnh phân biệt bệnh Viêm hồi tràng và Bệnh do Balantidium coli U hạt trắng bám trên thành ruột của heo nhiễm Balantidium coli và Thành ruột của heo bị bệnh Viêm hồi tràng dày lên Phân biệt 2 bệnh qua biểu hiện bên ngoài của ruột Biểu hiện trên ruột rất điển hình của 2 bệnh Biểu hiện của thành ruột cũng là một yếu tố điển hình để chẩn đoán phân biệt 2 bệnh trên Như vậy, sự khác nhau chủ yếu giữa 2 bệnh trên bao gồm, một là đối tượng heo bị bệnh; hai là biểu hiện bệnh tích trên ruột và ba là kết quả điều trị chẩn đoán bằng kháng sinh hoàn toàn khác nhau. Nguồn VietDVM Tổng quan lịch sử bệnh Viêm hồi tràng viêm ruột tăng sinh là bệnh có liên quan đến những thay đổi bệnh lý trong ruột non, do vi khuẩn Lawsonia intracellularis gây ra. Bệnh phân bố trên toàn thế giới, mầm bệnh tồn tại ở hầu hết các trại và sống bên trong tế bào lót của ruột non và ruột già. Hiện nay, bệnh viêm ruột tăng sinh được biết đến là có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, bao gồm thay đổi tăng trọng, giảm hiệu suất thức ăn, và suy giảm chức năng của đường ruột. Các nghiên cứu cho thấy, các ca nhiễm nhẹ có thể gây thất thoát 2-3 $/ heo và các ca nặng có thể lên đến 15$. Bệnh xảy ra ở 4 thể bệnh Thể u tăng sinh tuyến ruột PIA tăng sinh bất thường ở lớp lót tế bào ruột. Viêm ruột hoại tử NE các tế bào ruột non tăng sinh chết đi và bong ra hoại tử cùng với toàn bộ thành ruột non dày lên. Viêm hồi tràng cục bộ RI hoặc nhiễm trùng phần cuối ruột non mỗi vùng viêm có 1 biểu hiện khác nhau, có chỗ viêm tăng sinh, có chỗ viêm hoại tử. Viêm ruột tăng sinh xuất huyết PHE/PE có máu nhiều trong ruột non, do đó còn có tên phổ biến là bệnh ruột máu. Cơ chế lây truyền chính xác không được biết rõ nhưng mầm bệnh được tìm thấy ở các loài vật khác nhau như thỏ, chim và loài gặm nhắm. Phân có mang mầm bệnh là đường lan truyền mầm bệnh chính giữa các trại. Việc quản lý vệ sinh kém, chuồng trại dơ bẩn dẫn đến lây truyền cũng như vấy nhiễm mầm bệnh trên bề mặt nền, gây ra vấn đề dai dẳng trong trang trại. Heo đực và heo trưởng thành là vật mang trùng làm lây nhiễm giữa các heo, đàn giống cũng có thể là nguồn nhiễm bệnh. Các nghiên cứu chỉ ra rằng mầm bệnh có thể sống sót bên ngoài môi trường 2-3 tuần. Các heo nhiễm bệnh bài thải mầm bệnh trong vòng 6-8 tuần và có thể tìm thấy ở hạch amidan. PIA và NE có xu hướng xảy ra trên heo choai, nhưng thể PHE thường xảy ra đột ngột và nặng với tỷ lệ chết cao trên heo 60-90kg và heo hậu bị. Heo hậu bị có thể mang mầm bệnh khi nhập vào trại và là yếu tố phát bệnh nguy cơ ko ngờ tới hoặc chúng sẽ nhiễm bệnh đầu tiên trong trại. Tuy nhiên, PE thường phổ biến hơn trong các đàn heo khỏe mạnh nhưng nguyên nhân tại sao thì chưa được biết đến. Cơ chế sinh bệnh Vi khuẩn theo phân hoặc từ cơ thể heo bệnh xâm nhập vào cơ thể heo khỏe mạnh thông qua mũi, miệng. Từ đó vi khuẩn di chuyển xuống ruột và thường dừng lại ở đoạn cuối ruột non hồi tràng hoặc đoạn đầu của ruột già manh tràng. Tại đây, vi khuẩn bám chặt vào bề mặt của các tế bào màng ruột non, sau đó xuyên qua thành tế bào chui vào trong và nhân lên trong các tế bào thành ruột đó. Khi các tế bào thành ruột nhân lên thì trong mỗi tế bào có chứa một lượng vi khuẩn khiến cho tế bào đó không thể phát triển thêm nữa và gây ra bệnh tích đặc trưng của bệnh là các tế bào biểu mô thành ruột tăng sinh. Đồng thời khi vi khuẩn nhân lên nó cũng gây ra các triệu chứng khác như phá hỏng và gây thoái hóa, hoại tử tế bào niêm mạc ruột; gây viêm ruột; ruột chảy máu, phá hỏng lớp lông nhung ruột; tiêu hóa hấp thu kém, tiêu chảy phân lẫn máu, … Triệu chứng lâm sàng Các triệu chứng lâm sàng tùy thuộc vào sự thay đổi tự nhiên bên trong ruột non và nhiều trường hợp bệnh nhẹ không phát hiện triệu chứng bệnh. Thể PIA, heo ăn uống tốt bình thường nhưng có triệu chứng tiêu chảy mạn tính, gây hao mòn thể trạng heo, 1 số trường hợp có biểu hiện chướng bụng. Viêm ruột hoại tử cũng có biểu hiện tương tự nhưng tình trạng bệnh cấp tính biểu hiện rõ ràng nhất là có máu trong ruột. PHE thì heo có thể chết đột ngột hoặc biểu hiện xanh xao do thiếu máu và đi phân có máu đen. Nhiễm trùng thứ cấp do vi khuẩn thường xảy ra ở thể bệnh nặng. PHE xảy ra thường xuyên trên nhóm heo hậu bị, cụ thể trong vòng 4-6 tuần sau khi về trại, ở giai đoạn phối giống cho đến giữa giai đoạn mang thai. Heo nhiễm PE mạn tính hồi phục sau 4-6 tuần, tuy nhiên có thể có ảnh hưởng đến hiệu suất thức ăn và tăng trọng hàng ngày -80g/ ngày. Kết quả làm cho đàn trở nên không đồng đều. Chẩn đoán Dựa trên triệu chứng lâm sàng, mổ khám, mô bệnh học của vách ruột và tìm vi sinh vật trong phân thông quan kiểm tra ELISA. Kiểm tra huyết thanh học gọi là Ielitest cũng có thể phát hiện viêm hồi tràng, bằng cách lấy mẫu máu của 11 heo, 80-100kg. Kết quả có thể chứng minh mức độ tiếp xúc của đàn. Chúng cũng chỉ ra điều kiện vệ sinh của chuồng trại. Gần đây, nuôi cấy mô cũng được biết đến để chẩn đoán bệnh. Phòng bệnh Tránh mật độ quá đông. Sử dụng thuốc trên nhóm hậu bị mới nhập vào trại, tylosin hoặc các kháng sinh khác nếu có vấn đề nên sử dụng vào giai đoạn 1 tuần trước khi có triệu chứng, duy trì trong 4 tuần như khi điều trị. Giảm stress về môt trường Giảm ghép nhiều heo lại cùng nhau. Đảm bảo cung cấp nhiều nước cho heo. Rửa sạch và sát trùng giữa các ô chuồng. Các mầm bệnh bài thải qua phân và trú ẩn trong chuồng, khi tỷ lệ tiếp xúc tăng lên sẽ làm phát triển thành dịch bệnh. Chăn nuôi cùng vào – cùng ra. Khi có vấn đề xảy ra trên heo choai, nên rửa sạch và sát trùng kỹ giữa các ô chuồng đồng thời sử dụng thuốc điều trị cho heo. Giữ chuồng khô Kiểm soát tốt việc lây nhiễm giữa các ô chuồng là mấu chốt quan trọng của dịch tễ bệnh Lọc heo yếu ra các ô chuồng riêng để điều trị, có thể dùng Tiamulin tiêm hoặc tylosin, tetracycline pha nước uống trong 5 ngày. Virginiamycin là chất kích thích tăng trường thường sử dụng để phòng bệnh. Trong trường hợp liên tục nổ ra bệnh nặng, cần sử dụng thuốc trộn vào cám cho toàn đàn, có thể sử dụng 30-50g/ tấn Tiamulin tương đương 300-500g/ tấn Tiamax 10, hoặc CTC/ OTC 200-400g/ tấn thức ăn. Nếu sử dụng tylosin, dùng trong 3 tuần với liều 100g/ tấn, sau đó dùng liên tục với liều 40g/ tấn. Lawsonia intracellularis nhạy cảm với thuốc sát trùng nhóm QAC nhưng không đặc hiệu với phenolic. Rửa sạch chuồng, sử dụng chất tẩy rửa là phương pháp phù hợp nhất. Điều trị Các kháng sinh sau cho thấy hiệu quả đối với mầm bệnh Tylosin, enrofloxacin và chlortetracycline. Virginiamycin – chất kích thích tăng trưởng sử dụng để phòng bệnh. Tiamulin và tilmicosin cũng có thấy hiệu quả đối với mầm bệnh. Khi nhập hậu bị vào trại, sử dụng chu trình thuốc phòng bệnh như sau 30-50g/ tấn Tiamulin tương đương 300-500g/ tấn Tiamax 10 trong 10 ngày đầu, hoặc 300-500g/ tấn tetracycline hoặc 100g / tấn tylosin trong 4-6 tuần đầu mẫn cảm, có hiệu quả kiểm soát bệnh. Điều trị cá thể trên các heo nhiễm bệnh bằng Tiamulin, tylosin hoặc oxytetracyclin và bổ sung vitamin K hoặc 300-800mg hỗn hợp sắt Trường hợp cấp tính, sử dụng thuốc cấp qua đường uống cho heo trong vòng 2-3 ngày với OTC/CTC hoặc tylosin hoặc tiêm Tiamulin Tionaolin-200. Sau đó, trộn thêm vào thức ăn với liều 100-200g/ tấn Tiamulin tương đương 1-2kg/ tấn Tiamax 10 trong 5-7 ngày, hoặc 400g / tấn OTC/CTC hoăc tylosin 100g/tấn trong 2 – 3 tuần. Chiến lược sử dụng thuốc. Được áp dụng ở các thời điểm nhất định của trại trên heo 6-8 tuần tuổi để phòng bệnh. Kháng sinh nội bào được sử dụng nhiều nhất vì Lawsonia intracellularis sống bên trong tế bào. Tham khảo thông tin sản phẩm Tiamax 10 Tham khảo thông tin sản phẩm Tiamax 80 Nguồn tham khảo

trị bệnh viêm hồi tràng trên heo